Trong các bộ phận của con lợn thì phổi được đ.ánh giá là bộ phận tích tụ nhiều độc tố nhất, vì vậy cần cân nhắc thật kỹ trước khi dùng phổi lợn làm thức ăn.
Đặc tính của lợn là loài vật sống gần mặt đất, ăn, ngủ, sinh hoạt tại chỗ nên phổi thường xuyên hít phải lượng rất lớn bụi bẩn từ chất thải phân, đất cát và các kim loại nặng… Trong khi phổi lợn là cơ quan hô hấp, có rất nhiều phế nang. Đây được xem là nơi dễ dàng nhất để tích tụ và lắng đọng nhiều bụi trong màng phổi.
Phổi lợn không phải là nơi tích tụ bụi bẩn hàng ngày, mà khi hít thở, một lượng bụi cùng với các kim loại nặng sẽ bị hít sâu vào trong phổi và nằm yên ở đó. Khi con người ăn vào, sẽ vô tình mang theo bụi, kim loại nặng vào theo, thậm chí có cả virus gây bệnh, gây hại rất lớn cho cơ thể.
Ảnh minh họa
Ngoài ra, việc thường xuyên hít thở sát mặt đất sẽ kéo theo nhiều ký sinh trùng, bệnh dịch và vi khuẩn virus cũng liên tiếp chui vào phổi. Trong khi quá trình làm sạch, sơ chế để chế biến không thể loại bỏ hết những tạp chất trên.
Bởi vậy, việc ăn phổi lợn sẽ gặp nhiều nguy cơ bị nhiễm bụi bẩn, bụi kim loại, ký sinh trùng gây bệnh, vi khuẩn, vi rút gây bệnh là rất cao, gây ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe.
Nguy hiểm hơn, theo kết quả kiểm nghiệm cho thấy trong phổi lợn chứa một lượng độc tố, bởi chất tạo nạc và những thành phần tăng trọng trong thức ăn chăn nuôi, chiếm tỷ lệ 60% trong toàn bộ thịt lợn. Ăn phổi lợn nếu không xử lý, sơ chế đúng cách có thể bị ngộ độc.
Cách nhận biết phổi lợn không bị nhiễm bệnh
Mặc dù phổi lợn được khuyến cáo cần cân nhắc khi sử dụng để chế biến món ăn, nhưng theo y học cổ truyền, phổi lợn có thể sử dụng thành các bài thuốc có công dụng mát phổi, giảm ho, trừ đờm; thường dùng trị viêm đường hô hấp, lao phổi, hen phế quản, ho lâu ngày,…
Trong trường hợp sử dụng phổi lợn để làm thuốc hoặc chế biến làm thức ăn, cần lưu ý những điều sau đây:
1. Tuyệt đối không sử dụng phổi lợn c.hết trước khi mổ thịt hoặc nhiễm bệnh
Phân biệt bằng cách nhận biết sau:
– Phổi lợn c.hết thông thường sẽ có những giọt nước căng phồng trên bề mặt phổi, dạng bong bóng nước, có mủ hoặc có những nốt lồi lõm.
– Nếu phổi lợn chứa nhiều kim loại nặng hoặc bụi trần thì màu sắc sẽ chuyển sang ghi xám, hoặc màu nâu.
– Nếu phổi lợn màu hồng, sáng bóng, độ đàn hồi tốt thì mới là phổi tươi ngon.
2. Sơ chế phổi đúng cách
– Muốn rửa phổi sạch, cần để nguyên lá phổi, đổ nước vào trong phổi theo mạch khí quản, xóc rửa phổi như rửa một cái chai, đổ đầy nước vào phổi rồi lại lắc bóp cho sạch nước. Làm như vậy sẽ giảm thiểu bụi bẩn, độc tố, kim loại nặng.
– Thái phổi thành từng lát mỏng, đun sôi nước rồi chần phổi, sau đó mới chế biến theo nhu cầu.
Bệnh lao hạch có lây không?
Bệnh lao hạch là một trong những bệnh lao ngoài phổi dễ mắc phải, xuất hiện nhiều nhất là ở t.rẻ e.m.
Lao hạch là bệnh không lây nhiễm. Lao hạch khác với lao phổi là không lây lan cho những người xung quanh qua tiếp xúc bởi vi khuẩn này chỉ khu trú và phát triển trong hạch, không bùng phát ra ngoài.
Phân biệt hạch và lao hạch
Bình thường các hạch của cơ thể rất nhỏ, chỉ lớn bằng hạt thóc, hạt đỗ, hạt ngô nhỏ. Các hạch mềm nằm lẫn trong các mô xung quanh, ở tổ chức mỡ dưới hay hay lẫn trong thớ cơ nên khó nhận biết. Khi hạch đã có thể sờ nắn thấy nghĩa là chúng đã sưng to. Nếu hạch có sưng nóng, đỏ, sờ thấy đau, mật độ mềm thì dùng thử kháng sinh, nếu bớt sưng đau, kích thước nhỏ đi thì là viêm hạch do nhiễm khuẩn.
Nếu hạch cứng, phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng, sờ như hạt đạn chì, chân lan tỏa như rễ cây thì phải coi chừng đây có thể là hạch ung thư hoặc hạch di căn ung thư.
Nếu hạch lúc sưng lúc giảm, lúc không lúc đau thì có thể là hạch viêm do nhiễm khuẩn thông thường.
Nếu hạch phát triển chậm, sờ nắn không đau, mềm căng thì có thể là lao hạch.
Lao hạch là bệnh không lây cho người xung quanh khi tiếp xúc và dễ điều trị.
Con đường xâm nhập của trực khuẩn lao
Trực khuẩn lao có 4 con đường xâm nhập cơ thể và gây lao hạch: Trực khuẩn lao xâm nhập phổi, sau đó vào m.áu rồi đến tổ chức hạch và gây lao hạch. Trực khuẩn lao có thể xâm nhập trực tiếp hệ bạch huyết qua tổn thương lao ở niêm mạc miệng hoặc từ nhiễm khuẩn, tổn thương thông thường do sang chấn. Trực khuẩn lao có thể đi qua niêm mạc miệng vào đường bạch huyết (lao hạch tiên phát), cũng có thể xâm nhập hệ bạch huyết qua niêm mạc miệng mà không gây bệnh lý gì.
Như vậy, đường xâm nhập của trực khuẩn lao thường do nhiễm khuẩn lao toàn thân, gây viêm hạch nhiều chỗ.
Diễn tiến và triệu chứng của bệnh lao hạch
Khi bị lao hạch, người bệnh sẽ thấy xuất hiện một hoặc một nhóm hạch trên cơ thể bị sưng to, xuất hiện nhiều ở cổ với đặc điểm: Hạch xuất hiện tự nhiên mà người bệnh không rõ hạch bắt đầu có hay to lên từ lúc nào. Hạch sưng to dần mà không gây đau, với mật độ chắc, bề mặt nhẵn. Vùng da hạch sưng to không nóng, không tấy đỏ. Thường có nhiều hạch cùng một chỗ bị sưng, cái to cái nhỏ không đều nhau tập hợp thành một chuỗi. Có khi chỉ gặp một hạch đơn độc sưng to vùng cổ vùng cổ, không đau, không nóng, không đỏ.
Hạch lao phát triển qua 3 giai đoạn sau:
Giai đoạn đầu: Hạch bắt đầu sưng to, với các hạch to nhỏ không đều nhau, chưa dính vào da và cũng chưa dính vào nên di động còn dễ.
Giai đoạn sau: Giai đoạn này chuyển sang thể viêm hạch và viêm quanh hạch. Lúc này các hạch có thể bị dính vào với nhau thành các mảng, có thể hoặc chưa dính vào da và các tổ chức xung quanh. Nếu có sẽ làm hạn chế di động.
Giai đoạn nhuyễn hóa: Các hạch mềm dần, da vùng hạch bắt đầu sưng tấy đỏ nhưng không nóng và không đau. Khi hạch đã hóa mủ thì dễ vỡ.
Riêng ở thể khối u (viêm hạch lao phì đại, rất ít gặp, có triệu chứng sau: xuất hiện khối u ở cổ, một hay vài hạch nổi to, sau đó dính thành một khối lớn không đau, di động, không có viêm quanh hạch, sờ chắc. Khối u hạch to dần, chiếm gần hết vùng bên cổ khiến các hạch khác (dưới hàm, mang tai…) cũng bị phì đại. U nằm ở một bên hoặc cả 2 bên làm cho cổ như bị bạnh ra.
Lao hạch không lây, dễ điều trị
So với các thể lao khác thì lao hạch điều trị dễ dàng và đơn giản hơn rất nhiều. Thời gian điều trị có thể kéo dài từ 4-7 tháng tùy theo thể trạng bệnh. Với trường hợp bệnh nhân lao hạch bị u lympho lao hạch, lao không thành mủ, di động, khu trú thì có thể sử dụng phương pháp cắt bỏ. Lao hạch ở t.rẻ e.m dễ dàng chữa khỏi nếu được điều trị toàn thân đúng cách.
Để phòng ngừa bệnh lao hạch, cách tốt nhất là nâng cao sức đề kháng cơ thể, tránh để viêm hạch mạn tính kéo dài, tạo điều kiện cho trực khuẩn lao xâm nhập gây bệnh. Khi có chẩn đoán là mắc lao hạch, bệnh nhân cần tuân thủ điều trị theo chỉ định của bác sĩ chuyên khoa lao, phối hợp nâng cao thể trạng với chế độ ăn uống tốt và nghỉ ngơi hợp lý.