“Rạch tầng sinh môn” là một trong những “giai thoại” khiến nhiều chị em đã từng trải qua khi nhắc lại vẫn thấy nổi da gà.
Tầng sinh môn là một phần của bộ phận s.inh d.ục nữ, là phần mô nằm giữa â.m đ.ạo và h.ậu m.ôn. Kích thước tầng sinh môn khoảng 3-5cm và đảm nhiệm vai trò quan trọng đối với chức năng sinh sản của người phụ nữ.
Đối với các sản phụ sinh thường, nhất là sinh con so đầu lòng, thường được các bác sĩ chỉ định thực hiện thủ thuật rạch tầng sinh môn. Trong lúc chuyển dạ, khi sản phụ có dấu hiệu xuất hiện cơn co bóp tử cung và rặn đẻ, khi cơn co lên đến đỉnh điểm thì nhân viên y tế sẽ cắt một đường nhỏ tầng sinh môn để mở rộng khu vực này, giúp em bé ra ngoài dễ dàng hơn.
Chắc hẳn với không ít các chị em đẻ thường, bên cạnh cảm giác đau đẻ thì cảm giác đau khi rạch, khâu tầng sinh môn và những ngày khi vết khâu chưa lành là một nỗi ám ảnh. Vết khâu tầng sinh môn ảnh hưởng không nhỏ đến cuộc sống của người mẹ sau sinh, từ việc đi lại cho đến vấn đề tiêu hóa… đều khá bất tiện.
Hình ảnh minh họa vết rạch tầng sinh môn.
Cảm giác đau khi rạch, khâu tầng sinh môn và những ngày khi vết khâu chưa lành là một nỗi ám ảnh với các mẹ sinh thường (Ảnh minh họa).
Chính vì điều này mà có không ít người thắc mắc: ” Tại sao lại phải rạch tầng sinh môn?”, “Thời xưa các bà các mẹ ít bị rạch mà bây giờ đa số đều phải rạch?”, “Nếu không rạch thì sẽ ra sao? “…
Chia sẻ về vấn đề này, Th.S, BS Tạ Việt Cường (Phó giám đốc Trung tâm khám và điều trị, chăm sóc sức khỏe sinh sản – Bệnh viện Phụ sản Hà Nội cơ sở 2) cho biết: ” Khi đầu em bé chui vào trong â.m đ.ạo của người mẹ để chuẩn bị ra ngoài thì thực tế lỗ mở â.m đ.ạo nhỏ hơn đầu em bé, vì vậy việc rạch tầng sinh môn nhằm mục đích để mở rộng khu vực này đồng thời tạo vết rách theo một hướng định sẵn, tránh rách phức tạp.
Rách phức tạp tầng sinh môn có nhiều cấp độ: Rách sâu vào bên trong â.m đ.ạo, rách đứt thớ trung tâm bên ngoài, rách cơ thắt h.ậu m.ôn, rách trực tràng… Tất cả điều này khiến thành â.m đ.ạo mủn ra và việc khâu tầng sinh môn rất khó so với việc tạo ra một đường rách chủ động, vừa dễ khâu và cũng dễ phục hồi ” .
BS Tạ Việt Cường cho hay, việc rạch tầng sinh môn chủ động sẽ giúp sản phụ không phải đối diện với những nguy cơ nguy hiểm khi rách tầng sinh môn bị rách phức tạp.
Trong 13 năm gắn bó với nghề, bác sĩ Cường từng gặp những ca rách phức tạp tầng sinh môn, phải khâu 1-2 tiếng đồng hồ trong khi nếu là vết cắt chủ động thì việc khâu chỉ mất 10-15 phút. Bên cạnh đó, việc rạch tầng sinh môn cũng làm hạn chế tình trạng mất m.áu sau sinh vì có nhiều trường hợp mất rất nhiều m.áu do rách phức tạp. Việc ra m.áu ở vùng dưới có thể tạo thành rối loạn đông m.áu, không cầm m.áu được, những điều này là rất nguy hiểm cho sản phụ.
Có không ít chị em vẫn mách nhau về những bài tập, cách massage, chế độ ăn uống để giúp không phải rạch tầng sinh môn. Tuy nhiên, BS Cường cho hay bản thân anh chưa bao giờ nghĩ đến việc rạch hay không rạch: ” Vì như đã nói ở trên, việc rạch chủ động sẽ giúp tránh nguy cơ rách phức tạp. Hơn nữa, nếu không rạch sẽ làm em bé ra ngoài khó khăn hơn, nguy cơ lớn nhất là khiến bé bị ngạt, khi chào đời không khóc.
Vậy nếu đứng trước 2 sự lựa chọn, 1 là rạch, 2 là không rạch đợi â.m đ.ạo đủ giãn để bé chui ra nhưng có nguy cơ bị ngạt thì chắc chắn cả sản phụ và bác sĩ sẽ đều chọn cách an toàn hơn cho cả mẹ và bé.
Làm bác sĩ Sản thì chúng tôi luôn cân nhắc hướng đến mục tiêu an toàn cho mẹ và bé, chứ không phải mục tiêu là KHÔNG PHẢI RẠCH . Còn nếu một sản phụ nào đó nói với tôi là: “Em không muốn bị rạch tầng sinh môn” thì tôi sẽ trả lời là: “Vậy thì em hãy sinh mổ đi”.
Việc đẻ thường hay đẻ mổ cũng đều có những nhược điểm, ưu điểm. Nhưng mục đích của chúng ta là làm sao để em bé ra đời khỏe mạnh chứ đừng quá quan trọng việc phải đẻ bằng phương pháp nào “.
Dùng thuốc trị động kinh khi mang thai, tăng nguy cơ trẻ mắc bệnh tự kỷ
Phụ nữ dùng thuốc trị động kinh acid valproic trong thời kỳ mang thai có nguy cơ sinh con mắc bệnh tự kỷ cao hơn gấp đôi. Một nghiên cứu mới đây cho thấy.
Nghiên cứu cũng cho thấy rằng việc dùng thuốc khi mang thai gần như tăng gấp đôi khả năng trẻ mắc chứng rối loạn tăng động giảm chú ý (ADHD), so với những trẻ không tiếp xúc với thuốc khi mang thai.
Cứ 1.000 phụ nữ mang thai thì có từ 3 đến 7 phụ nữ mắc chứng động kinh. Những người bệnh này cần dùng thuốc liên tục, lâu dài. Phương pháp điều trị chính cho bệnh động kinh là thuốc chống động kinh và axit valproic là thuốc điều trị động kinh hàng đầu nhưng lại có những nguy cơ cho con…
TS Kelsey Wiggs, Đại học Indiana ở Bloomington và nhóm nghiên cứu đã xem xét gần 15.000 t.rẻ e.m sinh ra từ những bà mẹ mắc chứng động kinh từ năm 1996 đến năm 2011. Gần 1/4 số bà mẹ đã dùng thuốc chống động kinh trong ba tháng đầu của thai kỳ. Khoảng 10% phụ nữ dùng carbamazepine, 7% dùng lamotrigine và 5% phụ nữ dùng axit valproic (699 t.rẻ e.m).
Các nhà khoa học nhận thấy, trong số những trẻ tiếp xúc với axit valproic trong thai kỳ (699 t.rẻ e.m), có 36 trẻ phát triển chứng tự kỷ ở t.uổi lên 10. Trong số hơn 11.000 t.rẻ e.m không tiếp xúc với bất kỳ loại thuốc chống động kinh nào, chỉ có 154 trẻ được chẩn đoán mắc chứng tự kỷ. 54/699 t.rẻ e.m tiếp xúc với axit valproic phát triển ADHD khi lên 10. Ở những trẻ không tiếp xúc với thuốc, 251/ 11.000 trẻ được chẩn đoán mắc ADHD.
TS Wiggs cho biết không rõ việc tiếp xúc với axit valproic có thể gây ra chứng tự kỷ hoặc ADHD như thế nào, nhưng thuốc có liên quan đến sự gia tăng chuyển hóa của chất dinh dưỡng folate. Folate rất quan trọng trong sự phát triển của các tế bào hệ thần kinh.
Theo Tiến sĩ Steven Pacia, phó chủ tịch khoa thần kinh tại Bệnh viện Đại học North Shore ở Manhasset, NY, folate có thể là một yếu tố, và có thể có những lý do khác khiến thuốc này có liên quan đến tỷ lệ tự kỷ và ADHD cao hơn. Đây là nghiên cứu lớn nhất liên kết axit valproic với chứng tự kỷ và ADHD, nhưng loại thuốc này cũng đã được biết là có liên quan đến dị tật bẩm sinh và khuyết tật học tập ở trẻ.
Hầu hết các nhà thần kinh học đã cố gắng tránh dùng axit valproic ở phụ nữ muốn mang thai. Nhưng đôi khi người bệnh không thể kiểm soát cơn co giật bằng bất kỳ loại thuốc nào khác. Vì vậy, cố gắng giảm liều lượng thuốc càng nhiều càng tốt. Và, phần lớn phụ nữ dùng axit valproic vẫn sẽ sinh ra những đứa con bình thường.
Để dùng thuốc an toàn, theo các nhà nghiên cứu, quan trọng là người bệnh cần lập kế hoạch, trao đổi với bác sĩ điều trị có thể thay đổi thuốc khi có thể, hoặc sử dụng liều thấp nhất an toàn của axit valproic, đặc biệt là trong ba tháng đầu. Hầu hết các bác sĩ sản khoa sẽ cho phụ nữ uống vitamin trước khi sinh có nhiều folate. Bên cạnh đó, những phụ nữ này cần ngủ nhiều hơn và cố gắng tránh stress…